Lịch sử Thế tử tần

Cách gọi 「Tần; 嬪」 theo Chu lễ là chỉ hàng thiếp của Thiên tử, chỉ sau Phu nhân. Từ xưa, Trữ quân của Quốc vương như Thiên tử nhà Chu, Quốc vương nước Sở đều tự gọi Thái tử. Từ thời nhà Hán, lại lập nên danh vị Thế tử dùng để phong Trữ quân của các chư hầu thụ tước Hầu, Thái tử vẫn sử dụng để gọi các Trữ quân của các Chư hầu Vương, danh xưng dành cho vợ của Chư hầu Thái tử thường là Phu nhân, vợ của Thế tử Hầu tước vẫn chưa ghi lại rõ ràng.

Tại Hàn Quốc, nhà Triều Tiên của vương tộc họ Lý do nhận làm chư hầu của nhà Minhnhà Thanh, tước vị của gia tộc Lý thị cai trị Triều Tiên hạ xuống so với thông thường, Vua xưng Vương, vợ cả xưng Vương phi, chỉ sau khi chết mới tặng làm Vương hậu. Từ đó những danh vị khác của thành viên trong gia tộc cũng mô phỏng giảm đi so với triều đình Trung Hoa. Trữ quân của Triều Tiên vương do đó không phải Hoàng thái tử, mà là Vương thế tử. Phối ngẫu của Thế tử trở thành 「Thế tử tần」.

Cũng là một chư hầu Trung Quốc như Triều Tiên, Vương quốc Lưu Cầu có Vua xưng là Vương, đặt Trữ quân làm Vương thế tử, tục xưng Trung Thành vương tử (中城王子), song chính thất của Vương thế tử gọi là Thế tử phi, tôn hiệu Dã tung án tư gia na chí (野嵩按司加那志; ヌダキアジガナシNudaki ajiganasii)[1], tuc gọi Dã tung ngự điện (野嵩御殿).

Trong lịch sử Việt Nam, chúa Trịnh là chính quyền quân chủ duy nhất từng xưng Vương mà đặt Trữ quân. Cũng như Triều Tiên, các chúa Trịnh đặt người kế vị Vương tước của mình là Vương thế tử, giảm đi một bậc so với Hoàng thái tử. Tuy nhiên, danh hiệu cho chính thất của Vương thế tử họ Trịnh không được ghi lại.